Vận cổ vũ lặn chuyên nghiệp người Ireland Oliver Dingley đã dành phần nhiều thời gian trong năm qua để tập dượt sức mạnh trong một phòng tập thể dục, để chuẩn bị cho việc tham gia Thế vận hội Tokyo 2020. Người từng vào chung kết tại Thế vận hội Rio 2016 này thường thực hành các động tác lộn nhèo và dành hàng giờ trên tấm bạt lò xo để đảm bảo rằng anh sẽ tung ra khôn xiết mạnh bản thân trong các màn so tài ở Nhật Bản.
Tuy nhiên, khi anh ấy tập tành trong hồ bơi, một nhóm các nhà phân tách trên bờ đã dùng hệ thống phân tích
Còn tại Hồng Kông, nơi đang cử một đội gồm 46 người tham dự thi đấu ở 13 môn thể thao, các vận khích lệ ưu tú đã dùng một bộ máy chạy bộ khôn xiết đương đại trong khuôn viên Học viện Thể thao Hồng Kông để gắng giảm bớt thành tích xuống vài phần nghìn giây, nhưng vẫn tránh được việc bị thương. Họ cũng dùng một chiếc xe đạp tập đặc biệt có thể vừa tập tành vừa đo sức chịu đựng, cường độ cũng như nhiều chỉ số khác của thân khi vận động.
Sự kiện Olympic 2020 diễn ra ở Tokyo tới đây sẽ là nơi quy tụ của 11.000 vận cổ vũ từ khắp nơi trên thế giới. Và cùng tham gia với họ là các huấn luyện viên, nhà khoa học và nhà phân tách, những người cũng sẽ tham gia vào một cuộc đua nhằm để tìm ra sức nghệ tiên tiến nhất để giúp các vận khích lệ tăng thời cơ giành huy chương vàng . Trong các sự kiện trước đây, một vài trong số các công nghệ hiện đại này đã được hé lộ, như cảm biến theo dõi số lần đột quỵ của vận động viên bơi lội đến kính thực tế tăng cường có thể hiển thị nhịp tim của vận động viên đi xe đạp và các thông tin quan trọng khác.
"Công nghệ thể thao là một phần quan yếu trong quá trình chuẩn bị của vận động viên Olympic", Tiến sĩ Aimée Mears, giảng viên tại Viện Công nghệ Thể thao của Đại học Loughborough cho biết. "hồ hết các nhà nước và cơ quan quản lý thể thao sẽ có các quy định về công nghệ thể thao và nó sẽ được phối hợp vào sự tương trợ dành cho các vận khích lệ Olympic".
Các đội thi Olympic thường dùng nghiên cứu về cơ sinh vật học và việc phân tích dữ liệu để định lượng và soát kỹ thuật của vận cổ vũ, sau khi có sự can thiệp của huấn luyện viên hoặc khi trở lại sau chấn thương. tỉ dụ, trong môn bơi lội, họ sử dụng các công cụ hỗ trợ và máy quay
Và như với mọi Thế vận hội trước, các công nghệ được dùng cho Thế vận hội diễn ra trong kỷ nguyên đại dịch này cũng đã phát triển. Theo John Barden, giáo sư cơ sinh học tại Đại học Regina ở Canada, các thiết bị đeo là một trong những công cụ gần đây nhất đã trở thành phổ quát trong kho "vũ khí Olympic".
“Công nghệ đeo đặc biệt bổ ích để theo dõi các vận động viên khi các sân tập bị đóng cửa vì đại dịch,” ông cho biết. "Một trong những ích rõ ràng của công nghệ trên các thiết bị đeo là khả năng thu thập và cung cấp thông báo mà trước đây chưa có. Ví dụ, điện trở cảm ứng lực được đặt trong giày, ủng trượt tuyết hoặc bàn đạp xe đạp có thể cung cấp một luồng dữ liệu liên tiếp cho cả thảy buổi tập".
Các vận khích lệ Ethiopia luyện tập trước Thế vận hội Olympic Tokyo 2020.
Một trong số các đội đã sử dụng công nghệ đeo là đội bóng chuyền nữ Kenya. Thiết bị GPS của họ cung cấp dữ liệu về sức mạnh, nhịp tim và các chỉ số quan yếu khác của mỗi cầu thủ cho huấn luyện viên, những người sẽ sử dụng thông báo này để ngăn ngừa chấn thương và điều chỉnh chế độ tập dượt cho từng cá nhân chủ nghĩa.
Một báo cáo khác cho thấy công nghệ thể thao trên thiết bị đeo đến từ một công ty Đan Mạch, được xây dựng trên công nghệ radar, đang được dùng để giúp đội bóng chày Nhật Bản phân tích từng cú đánh của các vận khích lệ, sao cho họ có thể mang lại kết quả tốt nhất.
Cũng tại Tokyo, tập đoàn công nghệ khổng lồ của Trung Quốc Alibaba và nhà sinh sản chip Intel của Mỹ đã hiệp tác để vận hành một hệ thống theo dõi vận động viên 3D, cho phép các huấn luyện viên dò hỏi từng phút chuyển động của các vận cổ vũ Olympic của mình.
Hệ thống này dựa vào trí sáng dạ nhân tạo để thấy hiểu nguyên lý cơ sinh học trong chuyển động của các vận cổ vũ, được camera ghi lại và ước tính vị trí của các khớp chính trên thân. Với hệ thống này, huấn luyện viên có thể điều chỉnh phương pháp huấn luyện dựa trên thông tin thời gian thực trên vận cổ vũ của mình.
Công nghệ "song sinh" của Intel cũng tạo ra một bản sao ảo của các sân vận động, có thể giúp các vận khích lệ chuẩn bị cho những cuộc thi của họ. Mô hình có thể được truy cập duyệt đường mạng di động băng thông rộng 5G cực nhanh.
Các thương hiệu thể thao cũng đua nhau giới thiệu các y phục và thiết bị mới, tích hợp những cải tiến công nghệ mới nhất, để giúp nâng cao hiệu suất của các vận động viên.
Anta Sports đến từ Trung Quốc, đã sinh sản giày in 3D cho đội tuyển quyền anh, thứ mà họ cho rằng có khả năng bảo vệ và vừa vặn hơn. Hãng thời trang Leotards cũng đưa ra các mẫu thiết kế 3D để phù hợp với hình thể của các vận động viên thể dục phương tiện Trung Quốc.
Speedo đã giới thiệu hai bộ đồ bơi "đậm chất công nghệ" trong dòng sản phẩm Fastskin được tung ra ngay trước Thế vận hội, lấy cảm hứng từ da cá mập để giảm lực cản của người bơi trong nước.
Nike đã phát hành giày chạy bộ Vaporfly 4% vào năm 2017 và chúng nhanh chóng trở thành sản phẩm được các vận khích lệ yêu thích nhất. Cả Nike và các nghiên cứu độc lập đều phát hiện ra rằng loại giày này có thể giảm 4% mức tiêu hao năng lượng khi chạy so với các loại giày marathon khác, bao gồm cả Adizero Adios của Adidas.
Bên cạnh các công nghệ theo dõi hiệu suất vận động, các vận cổ vũ còn dùng một loạt các công nghệ theo dõi sức khỏe khác, Ví dụ như chất lượng giấc ngủ.
Một vận khích lệ cầm một đôi giày Nike Vaporfly.
Nhưng, sự ra đời của các công nghệ mới trong lĩnh vực thể thao không phải là không gây ra bàn cãi. Các nhà phê bình cho rằng nó thỉnh thoảng giống như một dạng "doping công nghệ", khi nó nâng cao hiệu suất một cách đáng kể.
Liên đoàn điền kinh quốc tế (World Athletics), vào tháng 7 năm ngoái đã cấm phiên bản nguyên mẫu của giày Vaporfly của Nike được dùng tại Thế vận hội Tokyo. Bởi biến thể chứa ba tấm sợi carbon được nhúng trong bọt siêu nén, giúp tăng lượng lực mà người chạy tác dụng vào để đẩy họ lao về phía trước.
Các quy định mới chỉ cho phép giày thi đấu không có gai, có một hoặc không có tấm hoặc lưỡi cứng bằng sợi carbon, và được thiết kế sao cho "bảo toàn tính vẹn toàn của các cuộc thi đấu". Tổ chức cũng cho biết các luật lệ này được đưa ra để duy trì hiện trạng công nghệ cho đến cả sau Thế vận hội Tokyo, nhằm mang lại sự công bằng và kiên cố cho việc huấn luyện vận khích lệ.
tấn sĩ Thomas Murray, chủ toạ danh dự của Hastings Center, một viện nghiên cứu đạo đức sinh học của Mỹ, cho biết những tiến bộ công nghệ không nên lấy đi các giá trị và ý nghĩa của khuôn phép vốn có.
"Cần phải nhìn lại chính bản thân và tự hỏi, chúng ta quan tâm đến điều gì trong thể thao?"
dù rằng không có câu đáp chung về khả năng chấp nhận của một số công nghệ thể thao nhất mực, nhưng theo Myray thì "việc quản lý thể thao, các lề luật thể thao cụ thể hơn, cố định phải là một phần của các cuộc nói chuyện liên tục, bởi mọi thứ luôn đổi thay. Các vận cổ vũ thay đổi, thiết bị đổi thay, kỳ vọng của mọi người thay đổi. Bạn chỉ cần tham gia vào cuộc chuyện trò đó một cách chân thực và chuẩn xác".
Lệnh cấm giày Nike của Liên đoàn điền kinh quốc tế đã gợi lại ký ức về sự đổi thay quy tắc vào năm 2008 của Liên đoàn thể thao dưới nước quốc tế, khi cấm vận cổ vũ dùng bộ đồ LZR Racer của Speedo. Đây là một bộ đồ toàn thân giúp giảm đáng kể lực cản và khiến vận khích lệ bơi lội tốt hơn. Vào thời khắc đó, các vận động viên mặc bộ áo quần này đã lập 23 trong số 25 kỷ lục thế giới tại Thế vận hội Bắc Kinh.
Đối với một số người, việc sử dụng công nghệ thể thao tiên tiến đã làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng giữa các đội được tài trợ tốt và các đội đến từ các nhà nước đang phát triển.
Tiến sĩ Bryce Dyer, người nghiên cứu công nghệ hỗ trợ trong thể thao và là phó trưởng khoa thiết kế và kỹ thuật tại Đại học Bournemouth của Anh, cho biết tiến bộ công nghệ có thể làm giảm tỷ lệ dự của một vận cổ vũ, do hạn chế về tổn phí khiến họ không thể tiếp cận các công nghệ như đồ bơi của Speedo hay giày Nike Vaporfly.
"Thật không may là một số vận cổ vũ sẽ gặp bất lợi", ông nói.
Giáo sư Sigmund Loland của Trường Khoa học Thể thao Na Uy cho biết các tiến bộ công nghệ càng ngày càng tăng sẽ gây nguy hiểm cho các sự kiện thể thao trong ngày mai.
"Nếu các môn thể thao ưu tú trở nên tấm gương đề đạt sự bất đồng đẳng chung giữa các nhà nước trên thế giới, thì nó sẽ không còn bất kỳ chức năng lý tưởng nào để tồn tại nữa".
Ông nói thêm rằng thể thao có mô tả thực hóa lý tưởng về thời cơ đồng đẳng và những giá trị đó sẽ cần các liên đoàn quốc tế tiêu chuẩn hóa thiết bị và vấn đề tài trợ cho việc chia sẻ công nghệ.
Nhưng bất chấp những tranh cãi xung quanh kết tội "doping công nghệ" và bất bình đẳng, công nghệ thể thao đã gắn liền với màn trình diễn của Hầu hết các vận cổ vũ Olympic ở Tokyo.
Tiến sĩ Dyer của Đại học Bournemouth cho biết: "Bất kể tài chính và địa lý, các vận động viên sẽ luôn nạm tìm ra những cách để tăng từng % trong thành tích thi đấu."
"trở nên người giành huy chương Olympic là một sự kiện đổi thay cuộc đời, cho nên thật ngu ngốc khi các vận cổ vũ không xem xét những lợi thế về hiệu suất được cung cấp hợp pháp cho họ trên thị trường."
Và như Barden của Đại học Regina đã nói, nếu trong tương lai, các cảm biến nhỏ và không phô trương được đặt trong giày hoặc kính bơi có thể nâng cao hiệu suất khi thi đấu thể thao, thì những cảm biến này cũng có thể giúp những người thích chạy bộ thoải mái hơn với kiểu sải chân của riêng họ, hay bổ ích cho các thầy thuốc tìm cách đánh giá rủi ro hệ trọng đến dáng đi của người cao tuổi.
Ông nói: "Hy vọng rằng bằng cách này, công nghệ đeo sẽ mang lại nhiều ích quan trọng cho xã hội trong tương lai."
Tham khảo SCMP